Trong khuôn khổ Chương trình Nghiên cứu về đổi mới sáng tạo và cách tân trong các ngành kinh tế chủ lực năm 2025, Viet Research phối hợp với Báo Tài chính – Đầu tư (Bộ Tài chính) công bố Top 10 Doanh nghiệp Đổi mới sáng tạo và Kinh doanh hiệu quả năm 2025 – Ngành Vật liệu xây dựng (Top 10 Most Innovative Enterprises in Building Materials – VIE10). Đây là những doanh nghiệp có tiềm năng và hiệu quả kinh doanh tốt nhờ tăng cường áp dụng và đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, cách tân.
Chương trình nhằm nâng cao nhận thức và tôn vinh tầm quan trọng của đổi mới sáng tạo, cách tân trong phát triển đất nước và doanh nghiệp.
Danh sách VIE10 ngành Vật liệu xây dựng và phương pháp nghiên cứu được đăng tải trên Cổng thông tin của Chương trình https://vie10.vn
Bảng 1: Top 10 Doanh nghiệp Đổi mới sáng tạo và Kinh doanh hiệu quả năm 2025 – Ngành Vật liệu xây dựng – Nhóm Vật liệu xây dựng cơ bản: Tôn – Thép – Xi măng
Nguồn: Top 10 Doanh nghiệp Đổi mới sáng tạo và Kinh doanh hiệu quả năm 2025 – Ngành Vật liệu xây dựng (https://vie10.vn)
Bảng 2: Top 10 Doanh nghiệp Đổi mới sáng tạo và Kinh doanh hiệu quả năm 2025 – Ngành Vật liệu xây dựng – Nhóm Vật liệu xây dựng hoàn thiện: Nhựa – Sơn công nghiệp, dân dụng
Nguồn: Top 10 Doanh nghiệp Đổi mới sáng tạo và Kinh doanh hiệu quả năm 2025 – Ngành Vật liệu xây dựng (https://vie10.vn)
Bảng 3: Top 10 Doanh nghiệp Đổi mới sáng tạo và Kinh doanh hiệu quả năm 2025 – Ngành Vật liệu xây dựng – Nhóm Vật liệu xây dựng hoàn thiện: Gạch ốp lát, đá, ngói trang trí
Nguồn: Top 10 Doanh nghiệp Đổi mới sáng tạo và Kinh doanh hiệu quả năm 2025 – Ngành Vật liệu xây dựng (https://vie10.vn)
Bảng 4: Top 10 Doanh nghiệp Đổi mới sáng tạo và Kinh doanh hiệu quả năm 2025 – Ngành Vật liệu xây dựng – Nhóm Vật liệu xây dựng hoàn thiện: Cửa nhôm kính
Nguồn: Top 10 Doanh nghiệp Đổi mới sáng tạo và Kinh doanh hiệu quả năm 2025 – Ngành Vật liệu xây dựng (https://vie10.vn)
Bảng 5: Top 10 Doanh nghiệp Đổi mới sáng tạo và Kinh doanh hiệu quả năm 2025 – Ngành Vật liệu xây dựng – Nhóm Nội thất
Nguồn: Top 10 Doanh nghiệp Đổi mới sáng tạo và Kinh doanh hiệu quả năm 2025 – Ngành Vật liệu xây dựng (https://vie10.vn)
Nguồn: Top 10 Doanh nghiệp Đổi mới sáng tạo và Kinh doanh hiệu quả năm 2025 – Ngành Vật liệu xây dựng (https://vie10.vn)
“Xanh hay là lỗi thời”: Vì sao ngành Vật liệu xây dựng buộc phải đổi mới?
Ngành Vật liệu xây dựng (VLXD) Việt Nam đóng góp khoảng 6–7% GDP vào cuối năm 2023. Trải qua giai đoạn phát triển mạnh, Việt Nam đã chuyển từ phụ thuộc nhập khẩu các vật liệu chính như clinker, gạch ốp lát, sứ vệ sinh, kính xây dựng trước năm 2010 sang chủ động sản xuất đáp ứng nhu cầu trong nước và thậm chí xuất khẩu. Năng lực sản xuất nhiều loại VLXD tăng hàng chục đến hàng trăm lần trong 40 năm qua – ví dụ kính xây dựng đạt sản lượng 331 triệu m2 năm (2023), gấp 57 lần so với năm 1994, đưa Việt Nam thành một trong những nước sản xuất kính hàng đầu Đông Nam Á. Tuy nhiên, bước sang giai đoạn 2023–2025, ngành VLXD đang đối mặt với nhiều thách thức lớn đòi hỏi đổi mới sáng tạo (ĐMST) mạnh mẽ để duy trì đà phát triển bền vững.
Trước hết, tăng trưởng xanh và yêu cầu phát triển bền vững tạo sức ép lớn lên ngành VLXD. Việt Nam cam kết phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 tại COP26, đồng thời ban hành Chiến lược tăng trưởng xanh và Kế hoạch hành động ứng phó biến đổi khí hậu trong xây dựng giai đoạn 2022–2030. Xây dựng và VLXD vốn tiêu thụ khoảng 40% năng lượng quốc gia, tạo ra 50% phát thải, 30% lượng khí thải carbon và 40% chất thải rắn, nên việc “xanh hóa” ngành VLXD trở thành xu thế tất yếu. ĐMST giúp giảm tác động môi trường của VLXD thông qua phát triển vật liệu xanh, quy trình sản xuất ít phát thải và sử dụng hiệu quả tài nguyên. Chẳng hạn, Bộ Xây dựng đặt mục tiêu đến năm 2030 hoàn thiện tiêu chuẩn sản phẩm xanh, carbon thấp cho xi măng, gạch ốp lát, sứ vệ sinh, kính xây dựng và vật liệu tái chế; phấn đấu 25% vật liệu xây dựng chủ yếu được chứng nhận sản phẩm xanh. Điều này cho thấy tầm quan trọng của ĐMST trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường ngày càng cao.
Thứ hai, đô thị hóa và sự phát triển hạ tầng nhanh chóng làm tăng mạnh nhu cầu VLXD, đồng thời đòi hỏi vật liệu chất lượng cao, tính năng mới. Dân số và đô thị hóa gia tăng thúc đẩy xây dựng công trình dân dụng và thương mại, kéo theo nhu cầu đa dạng về VLXD bền vững và hiệu quả. Các dự án hạ tầng quy mô lớn (cao tốc Bắc – Nam, sân bay Long Thành, đường vành đai đô thị…) tạo nhu cầu khổng lồ về xi măng, thép, cát, đá.
Trong bối cảnh đó, ĐMST giúp ngành VLXD cung cấp các vật liệu bền hơn, nhẹ hơn, đa dạng mẫu mã và phù hợp với yêu cầu kỹ thuật cao. Vật liệu mới còn đóng vai trò quan trọng để tạo nên những công trình hiện đại, an toàn, đẹp mắt và tiết kiệm chi phí dài hạn. Nhu cầu người tiêu dùng cũng thay đổi, ưu tiên vật liệu thông minh, thẩm mỹ và thân thiện môi trường, thúc đẩy doanh nghiệp VLXD phải không ngừng sáng tạo.
Cuối cùng, yếu tố hiệu quả kinh tế và cạnh tranh thị trường đòi hỏi ngành VLXD đổi mới để tối ưu chi phí và nâng cao năng lực. Hiện chi phí vật liệu chiếm tới khoảng 60% tổng chi phí xây dựng một dự án, việc giá VLXD biến động mạnh gây áp lực lên hiệu quả đầu tư. Giai đoạn 2023–2024, thị trường VLXD gặp khó khăn: nhu cầu tiêu thụ sụt giảm, tồn kho tăng cao, nhiều doanh nghiệp sản xuất cầm chừng.
Chẳng hạn, sản lượng xi măng năm 2023 chỉ đạt 92,9 triệu tấn (khoảng 75% công suất toàn ngành) khiến 42/92 dây chuyền phải tạm dừng sản xuất, tồn kho dư hơn 5 triệu tấn vào đầu 2024. Lĩnh vực kính xây dựng cũng suy giảm tiêu thụ khoảng 33% so với năm 2020. Cung vượt cầu buộc doanh nghiệp VLXD phải đổi mới sáng tạo để nâng cao chất lượng, giảm chi phí và tìm hướng đi mới nhằm tồn tại và cạnh tranh. Nhiều doanh nghiệp đã chủ động ứng dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất, tiết kiệm nguyên nhiên liệu, cải thiện quản trị và tiếp thị, đồng thời chú trọng các giải pháp giảm phát thải, kinh tế tuần hoàn… Rõ ràng, ĐMST là chìa khóa giúp ngành VLXD vượt qua giai đoạn khó khăn, đáp ứng đồng thời mục tiêu kinh tế và môi trường.
Trong bối cảnh yêu cầu tăng trưởng xanh, đô thị hóa nhanh và áp lực hiệu quả kinh tế, ĐMST giữ vai trò sống còn đối với ngành VLXD Việt Nam.
Cuộc cách mạng vật liệu: Đổi mới từ xi măng đến kính thông minh
Ngành VLXD bao gồm nhiều nhóm sản phẩm đa dạng. Dựa trên tính chất và công dụng, có thể phân chia thành: (1) Vật liệu xây (kết cấu thô như xi măng, bê tông, gạch xây, thép…); (2) Vật liệu hoàn thiện (vật liệu sử dụng ở khâu hoàn thiện công trình như kính, sơn, gạch ốp lát, thiết bị vệ sinh…); và (3) Vật liệu “xanh” và tái chế (vật liệu thân thiện môi trường, tận dụng phế thải hoặc công nghệ mới). Mỗi nhóm đang chứng kiến những xu hướng ĐMST đặc thù, từ cải tiến công nghệ sản xuất đến phát triển sản phẩm mới.
Vật liệu xây: Xi măng, bê tông và gạch xây
Xi măng và bê tông – vật liệu kết cấu chủ lực – đang là trọng tâm của các nỗ lực ĐMST do có cường độ phát thải cao và sản lượng lớn. Xu hướng nổi bật nhất là phát triển xi măng “xanh” ít clinker, tức giảm tỷ lệ clinker trong xi măng bằng cách thay thế bằng các phụ gia khoáng (tro bay từ nhiệt điện, xỉ lò cao, đá vôi, puzolan tự nhiên…). Hiện trung bình sản xuất 1 tấn xi măng Portland thải ra khoảng 725–750 kg CO2. Việc tăng phụ gia giúp giảm lượng clinker cần dùng, qua đó giảm đáng kể phát thải CO2. Chẳng hạn, xi măng Portland hỗn hợp (PLC) sử dụng thêm đá vôi, tro bay… có thể giảm khoảng 22% khí thải CO2 so với xi măng thường.
Tại Việt Nam, các doanh nghiệp xi măng đang hướng tới giảm hệ số clinker (clinker factor) trong sản phẩm. Nhiều nhà máy đã điều chỉnh công thức phối liệu, nâng tỷ lệ phụ gia lên mức 25–30%, thậm chí cao hơn, mà vẫn đảm bảo chất lượng xi măng. Nhờ đó, công suất sản xuất có thể vượt thiết kế – với công suất lắp đặt khoảng 122 triệu tấn/năm, nếu tăng phụ gia thì sản lượng xi măng thực tế có thể đạt 130–140 triệu tấn. Đây là cách các doanh nghiệp tối ưu hóa hiệu quả, giảm chi phí nhiên liệu trên mỗi tấn sản phẩm và giảm phát thải.
Bên cạnh xi măng “ít clinker”, ngành còn chứng kiến sự xuất hiện của các chất kết dính mới thay thế xi măng Portland. Ví dụ, geopolymer – chất kết dính hoạt tính kiềm chế tạo từ tro bay, xỉ… – có thể cắt giảm phần lớn lượng clinker và gần như không phát thải CO2 trong quá trình đóng rắn. Trên thế giới, xi măng LC3 (viết tắt của Limestone Calcined Clay Cement) kết hợp clinker, đất sét nung và đá vôi đang được nghiên cứu sản xuất thử nghiệm tại Cuba và vài nước khác. Những công nghệ mới này còn trong giai đoạn đầu nhưng mở ra triển vọng đột phá để hướng tới xi măng không phát thải CO2 trong tương lai.
Cùng với cải tiến về vật liệu kết dính, công nghệ sản xuất xi măng cũng đổi mới theo hướng tiết kiệm năng lượng và giảm ô nhiễm. Nhiều nhà máy tại Việt Nam đã đầu tư hệ thống tận dụng nhiệt thải lò nung để phát điện, giúp tiết kiệm 20–30% điện năng tiêu thụ. Các dự án đồng xử lý chất thải trong lò nung xi măng cũng được triển khai nhằm thay thế một phần nhiên liệu than bằng rác thải công nghiệp và sinh hoạt. Một số doanh nghiệp tiên phong trong việc áp dụng công nghệ co-processing – tích hợp đốt chất thải trong dây chuyền sản xuất clinker. Công nghệ đồng xử lý ở nhiệt độ khoảng 2.000°C giúp tiêu hủy hoàn toàn rác, giảm nhu cầu nhiên liệu hóa thạch và giảm thiểu chôn lấp rác thải. Tuy còn vướng mắc về nguồn rác và chi phí, đây được xem là giải pháp tối ưu hướng tới kinh tế tuần hoàn trong ngành xi măng.
Bê tông – sản phẩm từ xi măng – cũng đang đổi mới mạnh mẽ cả về vật liệu lẫn công nghệ thi công. Xu hướng bê tông hiệu năng siêu cao (UHPC) và bê tông cường độ cao phục vụ các kết cấu đòi hỏi độ bền lớn (cầu, nhà siêu cao tầng) ngày càng phổ biến. Trong nước, các dự án cầu đường mới đã bắt đầu thử nghiệm UHPC cho dầm cầu siêu mảnh, giảm khối lượng kết cấu. Song song, bê tông tự lèn (Self-compacting concrete) giúp đơn giản hóa thi công, và bê tông tự phục hồi (Self-healing concrete) với khả năng tự vá vết nứt bằng vi khuẩn hoặc hóa chất đang được nghiên cứu ứng dụng.
Những sản phẩm bê tông xanh này không chỉ bền chắc mà còn giảm thiểu bảo trì và kéo dài tuổi thọ công trình, qua đó giảm tổng phát thải vòng đời. Việt Nam đã xuất hiện các dự án thử nghiệm bê tông pha sợi polymer, sợi thủy tinh để tăng độ dẻo dai và hạn chế nứt. Một số công ty công nghệ nano nghiên cứu bổ sung graphene vào bê tông, giúp bê tông tăng 15–20% cường độ uốn nén và rút ngắn thời gian đóng rắn – điều này cho phép giảm lượng xi măng (clinker) cần dùng mà vẫn đạt cường độ mong muốn.
Gạch xây và vật liệu xây không nung là lĩnh vực đổi mới trọng tâm khác. Gạch đất sét nung truyền thống tiêu tốn nhiều tài nguyên đất sét và nhiên liệu than để nung, gây phát thải cao và làm suy giảm đất nông nghiệp. Vì vậy, Chính phủ đã triển khai Chương trình phát triển vật liệu xây không nung (VLXKN) nhằm thay thế dần gạch đất sét nung. Theo Quyết định 2171/QĐ-TTg (2021), mục tiêu đến năm 2025 là VLXKN chiếm 35–40% tổng vật liệu xây, và đến 2030 đạt 40–45%, giúp giảm trên 3 triệu tấn CO2/năm so với sản xuất gạch nung.
Đặc biệt, từ 2030, tất cả công trình sử dụng vốn đầu tư công phải dùng 100% VLXKN, thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của Nhà nước. Nhờ các chính sách hỗ trợ, gạch không nung (gạch xi măng-cốt liệu, gạch bê tông khí chưng áp, v.v.) đã phát triển nhanh. Hiện cả nước có hàng trăm cơ sở sản xuất VLXKN với tổng công suất hàng tỷ viên mỗi năm. VLXKN có ưu điểm tận dụng phế thải công nghiệp (tro xỉ nhiệt điện, xỉ thép…) làm nguyên liệu, không cần đốt, nên giảm tiêu hao năng lượng và phát thải.
Nhiều loại gạch không nung nhẹ hơn, cách âm cách nhiệt tốt, thi công nhanh, nên được thị trường đón nhận. Gạch bê tông khí chưng áp (AAC), gạch bê tông bọt… dần thay thế gạch đỏ trong nhiều công trình cao tầng, giúp giảm tải trọng móng và tiết kiệm chi phí kết cấu. Ngoài ra, còn xuất hiện “gạch tự làm mát” – loại gạch có thiết kế lỗ rỗng đặc biệt và thành phần giữ ẩm, giúp tường nhà tự hạ nhiệt trong môi trường nóng. Các tấm tường panel tiền chế bằng bê tông rỗng, bê tông nhẹ cũng được dùng thay tường gạch, vừa giảm vật liệu vừa tăng tốc độ xây dựng. Đây chính là những minh chứng cho ĐMST trong nhóm vật liệu xây, hướng tới kết cấu bền vững, thi công hiệu quả và thân thiện môi trường.
Vật liệu hoàn thiện: Kính, sơn và vật liệu bề mặt
Nhóm vật liệu hoàn thiện cũng chứng kiến làn sóng ĐMST để đáp ứng yêu cầu công trình hiện đại về thẩm mỹ, công năng và hiệu quả năng lượng. Nổi bật trong nhóm này là vật liệu kính xây dựng và vật liệu sơn phủ.
Kính xây dựng: Xu hướng chủ đạo là phát triển các loại kính tiết kiệm năng lượng (energy-efficient glass) nhằm cải thiện hiệu suất nhiệt cho công trình. Việt Nam từ chỗ phải nhập khẩu kính xây dựng trước 2010, nay đã vươn lên tự chủ và xuất khẩu kính với sản lượng đứng đầu ASEAN. Các doanh nghiệp trong nước đã đầu tư công nghệ phủ màng kim loại, tạo ra kính Low-E và kính Solar Control có tính năng kiểm soát bức xạ mặt trời vượt trội. Viglacera là một ví dụ. Doanh nghiệp hiện cung cấp hai dòng kính tiết kiệm năng lượng là Low-E (phủ lớp kim loại siêu mỏng) và Solar Control (phủ màng phản xạ nhiệt). Cả hai loại kính này đều có cấu trúc nhiều lớp phủ nano kim loại (5–8 lớp) trên bề mặt kính, giúp cách nhiệt và chặn tới 99% tia UV, cản ~69% bức xạ mặt trời, từ đó giảm tải nhiệt cho tòa nhà.
Bên cạnh Low-E, thị trường cũng có các loại kính cản nhiệt, kính phản quang, kính hai lớp chân không… giúp tăng cường cách âm, cách nhiệt cho công trình xanh. ĐMST trong sản xuất kính được hỗ trợ bởi công nghệ phủ chân không hiện đại, cho phép Việt Nam sản xuất kính chất lượng châu Âu ngay trong nước. Nhờ đó, kính tiết kiệm năng lượng dần trở thành tiêu chuẩn cho các công trình xanh, giảm đáng kể chi phí vận hành điều hòa và đáp ứng xu hướng kiến trúc xanh.
Sơn và vật liệu phủ bề mặt: Trong lĩnh vực sơn xây dựng, các xu hướng “xanh” và công nghệ cao đang định hình sản phẩm mới. Một xu hướng quan trọng là phát triển sơn thân thiện môi trường, giảm phát thải các hợp chất hữu cơ bay hơi (VOC) gây hại sức khỏe. Nhiều hãng sơn tại Việt Nam (như Dulux, Nippon…) đã giới thiệu dòng sơn sinh thái với hàm lượng VOC rất thấp, không chứa chì, thủy ngân, đạt các chứng chỉ Green Label.
Xu hướng thứ hai là sơn thông minh với các tính năng đặc biệt: sơn tự làm sạch (chống bám bụi, tự rửa trôi khi gặp mưa), sơn phản quang nhiệt (phản xạ bức xạ mặt trời để chống nóng cho mái và tường), sơn kháng khuẩn cho không gian nội thất bệnh viện, trường học. Những sản phẩm này đòi hỏi nghiên cứu công nghệ polymer và phụ gia tiên tiến. Ví dụ, một số loại sơn phủ mái nhà có thể giảm nhiệt độ mái tôn tới 5–10°C nhờ chất phản xạ tia hồng ngoại, góp phần làm mát công trình và tiết kiệm điện điều hòa. Bên cạnh đó, kỹ thuật sơn tĩnh điện và sơn phủ bột cũng được ứng dụng rộng rãi để thay thế sơn dung môi truyền thống, loại bỏ được dung môi VOC và nâng cao hiệu suất phủ.
Đối với gạch ốp lát và vật liệu trang trí, các doanh nghiệp đang đổi mới mẫu mã và công nghệ in kỹ thuật số. Gạch ốp lát cao cấp nay có thể in hoa văn giả đá, giả gỗ sống động nhờ công nghệ in phun kỹ thuật số 3D, cho bề mặt thẩm mỹ như vật liệu tự nhiên nhưng chi phí thấp hơn. Đồng thời, xu hướng sử dụng gạch ốp lát kích thước lớn, mỏng và nhẹ đang phát triển, đòi hỏi công nghệ sản xuất chính xác và nguyên liệu cải tiến để vừa bền chắc vừa giảm trọng lượng. Trong thiết bị vệ sinh (sứ vệ sinh, sen vòi), ĐMST thể hiện qua lớp men nano kháng khuẩn, công nghệ xả tiết kiệm nước, hay sử dụng vật liệu mới (nhựa giả đá, composite) để giảm giá thành và trọng lượng sản phẩm.
Nhìn chung, nhóm vật liệu hoàn thiện tập trung ĐMST vào việc nâng cao hiệu năng sử dụng (cách nhiệt, chống nóng, chống bẩn), cải thiện môi trường trong nhà (giảm chất độc hại, kháng khuẩn) và đa dạng hóa thiết kế. Những đổi mới này gắn liền với xu hướng công trình xanh và yêu cầu ngày càng cao của khách hàng về chất lượng sống. Các doanh nghiệp VLXD hoàn thiện tại Việt Nam cũng hưởng lợi từ việc chuyển giao công nghệ từ đối tác nước ngoài, đầu tư dây chuyền hiện đại, qua đó nhanh chóng bắt kịp các xu hướng sơn, kính, gạch ốp lát tiên tiến trên thế giới.
Vật liệu xanh và vật liệu tái chế
Bên cạnh các nhóm truyền thống, vật liệu “xanh” và tái chế nổi lên như một phân nhóm quan trọng, phản ánh rõ nét tinh thần ĐMST trong thời đại kinh tế tuần hoàn. Đây là các vật liệu được thiết kế nhằm giảm tác động môi trường, tận dụng phế thải hoặc có thể tái sử dụng, tái chế sau vòng đời công trình.
Một xu hướng đáng chú ý là sử dụng phế thải công nghiệp làm nguyên liệu sản xuất VLXD mới. Như đã đề cập, tro bay và xỉ than từ nhà máy nhiệt điện được sử dụng rộng rãi làm phụ gia cho xi măng, bê tông và sản xuất gạch không nung. Theo số liệu của Bộ Xây dựng, giai đoạn 2020–2023, mỗi năm Việt Nam tận dụng được hàng chục triệu tấn tro xỉ nhiệt điện vào VLXD, góp phần giải quyết bài toán chất thải và giảm khai thác cát, sỏi tự nhiên.
Một số công trình giao thông đã thử nghiệm dùng tro xỉ thay thế cát làm nền đường bê tông, cho kết quả khả quan. Xỉ lò cao từ luyện gang thép cũng được nghiền mịn làm phụ gia xi măng (xi măng xỉ) và chế tạo vật liệu nền đường. Thạch cao từ nhà máy phân bón DAP hay từ quá trình khử lưu huỳnh khí thải (FGD) tại nhà máy nhiệt điện thay thế thạch cao tự nhiên trong sản xuất xi măng, góp phần giảm nhập khẩu. Đây là các ví dụ về kinh tế tuần hoàn trong VLXD – biến chất thải của ngành này thành nguồn tài nguyên cho ngành khác.
Song song, việc tái chế phế liệu xây dựng cũng được đẩy mạnh. Phế thải xây dựng (đất, bê tông, gạch vỡ từ công trình phá dỡ) từng bị bỏ đi, nay đã có doanh nghiệp thu gom nghiền sàng thành cốt liệu tái chế dùng cho bê tông không kết cấu, đường giao thông hoặc san lấp.
Đặc biệt, tái chế chất thải nhựa thành VLXD đang là hướng đi tiềm năng. Nhựa phế thải vốn khó phân hủy được các doanh nghiệp sáng tạo dùng làm nguyên liệu chế tạo tấm ván, ngói lợp, gạch lát.
Một loại vật liệu xanh khác là vật liệu có nguồn gốc sinh học hoặc tự nhiên. Ví dụ, gỗ đang được khuyến khích sử dụng trở lại trong xây dựng nhờ công nghệ gỗ kỹ thuật (engineered wood) như gỗ ghép thanh, gỗ ép nhiều lớp (CLT) có độ bền cao, thay thế một phần cho bê tông và thép. Gỗ lưu trữ carbon và tái tạo được, nên công trình dùng nhiều gỗ sẽ giảm dấu chân carbon. Tương tự, tre – vật liệu truyền thống của Việt Nam – qua xử lý công nghệ cũng trở thành vật liệu hiện đại (ví dụ tấm ốp tre ép, kết cấu khung tre) phục vụ kiến trúc xanh. Một số công trình du lịch sinh thái ở Việt Nam đã nổi tiếng thế giới với kiến trúc tre (như khu nghỉ dưỡng bằng tre ở Hội An), cho thấy tiềm năng của vật liệu sinh học. Tuy nhiên, để ứng dụng rộng rãi, cần ĐMST về phương pháp thiết kế và tiêu chuẩn kỹ thuật cho các vật liệu này.
Cuối cùng, không thể không nhắc tới xu hướng vật liệu thông minh góp phần xanh hóa công trình. Đây là các vật liệu có thể thay đổi tính chất theo môi trường hoặc được tích hợp công nghệ. Chẳng hạn, sơn đổi màu chống nóng (đổi từ màu tối sang sáng khi trời nắng để phản xạ nhiệt tốt hơn), kính thông minh (tự điều chỉnh độ mờ trong suốt để kiểm soát ánh sáng), gạch ốp tích hợp pin năng lượng mặt trời… Một ví dụ là gạch ốp lát khử khí độc: một số loại gạch men được phủ nano TiO2 có khả năng phân hủy chất ô nhiễm trong không khí khi tiếp xúc ánh sáng, giúp làm sạch không khí trong nhà. Dù các sản phẩm này còn mới mẻ, chúng cho thấy hướng phát triển tương lai khi công nghệ vật liệu giao thoa với công nghệ số và IoT để tạo nên những vật liệu xây dựng “thông minh” và thân thiện hơn.
Nhóm vật liệu xanh và tái chế thể hiện rõ tinh thần đổi mới hướng tới phát triển bền vững. Tận dụng chất thải làm nguyên liệu, dùng vật liệu tái tạo và phát triển vật liệu thông minh đều nhằm mục tiêu giảm tiêu hao tài nguyên, giảm phát thải và bảo vệ môi trường, đúng với định hướng tăng trưởng xanh của ngành Vật liệu xây dựng Việt Nam.
Tương lai xanh của ngành Vật liệu xây dựng: Định hình từ sáng tạo hôm nay
Giai đoạn 2023–2025 được coi là bản lề quan trọng để ngành VLXD Việt Nam tái cơ cấu theo hướng đổi mới sáng tạo, chuẩn bị cho chu kỳ phát triển xanh và hiệu quả hơn. Trong thời gian tới, các xu hướng ĐMST sẽ tiếp tục tăng tốc dưới tác động của cả chính sách trong nước và các cam kết quốc tế, cũng như nhu cầu thị trường ngày càng khắt khe. Theo khảo sát và nghiên cứu của Viet Research từ các doanh nghiệp trong Top 10 Doanh nghiệp Đổi mới sáng tạo và Kinh doanh hiệu quả năm 2025 – Ngành Vật liệu xây dựng, có 03 xu hướng chính trong việc thực hiện đổi mới sáng tạo.
Nguồn: Top 10 Doanh nghiệp Đổi mới sáng tạo và Kinh doanh hiệu quả năm 2025 – Ngành Vật liệu xây dựng (https://vie10.vn)
Về chính sách hỗ trợ của Nhà nước, Chính phủ Việt Nam đang triển khai nhiều biện pháp mạnh mẽ thúc đẩy ĐMST ngành VLXD. Ngoài chương trình VLXKN đến 2030 đã đề cập, Bộ Xây dựng cũng ban hành Kế hoạch hành động ứng phó biến đổi khí hậu 2022–2030, đề ra mục tiêu cắt giảm phát thải trong sản xuất VLXD. Cụ thể, ngành Xây dựng hướng tới hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật cho vật liệu xanh, xây dựng cơ chế chứng nhận nhãn xanh cho sản phẩm VLXD và khuyến khích sử dụng vật liệu có chứng nhận này trong đầu tư công.
Đến 2030, phấn đấu 25% vật liệu chủ yếu đạt chứng nhận xanh và đến 2050 đưa ngành VLXD trở thành công nghiệp xanh hiện đại, ứng dụng tối đa công nghệ số, trí tuệ nhân tạo. Nhà nước cũng tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý ưu đãi cho VLXD tái chế, ví dụ như giảm thuế bảo vệ môi trường cho sản phẩm dùng phế thải, hỗ trợ tín dụng xanh cho doanh nghiệp ĐMST. Các văn bản quy phạm gần đây như Luật Bảo vệ môi trường 2020 (sửa đổi) với quy định về kinh tế tuần hoàn, Nghị định 08/2022 về trách nhiệm tái chế của nhà sản xuất (EPR) đều tạo nền tảng thúc đẩy sử dụng vật liệu tái chế trong xây dựng.
Bên cạnh đó, Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (EVFTA, CPTPP) có chương về phát triển bền vững, khiến các tiêu chuẩn môi trường cho sản phẩm xuất khẩu (bao gồm VLXD) trở nên quan trọng. Doanh nghiệp VLXD muốn tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ phải đổi mới công nghệ để tuân thủ các tiêu chuẩn “xanh” quốc tế. Như vậy, chính sách trong nước và cam kết hội nhập đều đồng hành định hướng ngành VLXD chuyển đổi theo hướng sáng tạo, bền vững.
Về tác động từ các hiệp định và cam kết quốc tế, nổi lên là yêu cầu giảm phát thải nhà kính xuyên biên giới. Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của Liên minh châu Âu là ví dụ điển hình. Từ 2026, EU sẽ áp chi phí khí carbon cho hàng nhập khẩu như thép, xi măng… dựa trên lượng phát thải khi sản xuất. Tuy xuất khẩu xi măng Việt Nam sang EU chỉ chiếm khoảng 1–2% sản lượng, nhưng CBAM có thể mở rộng sang nhiều thị trường khác theo hiệu ứng domino.
Dự báo đến năm 2030, chi phí carbon mà xi măng Việt Nam phải chịu để vào EU có thể lên tới 25–30 EUR/tấn (tương đương 600–700 nghìn VNĐ). Điều này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới cạnh tranh giá, buộc các nhà máy xi măng phải đầu tư công nghệ giảm phát thải, như hệ thống tận thu CO2, sử dụng nhiên liệu sinh khối, nâng hiệu suất năng lượng…
Mặt khác, đây cũng được coi là cơ hội thúc đẩy ngành xi măng Việt Nam tái cấu trúc theo hướng xanh và bền vững hơn ngay từ bây giờ. Tương tự, lĩnh vực sản xuất thép, gạch ốp lát… nếu muốn giữ thị phần xuất khẩu cũng phải đón đầu công nghệ sản xuất carbon thấp (như thép hydro, lò điện dùng năng lượng tái tạo, gạch ốp lát nung bằng khí sinh học…). Các hiệp định quốc tế về khí hậu và phát triển bền vững sẽ dần định hình “luật chơi” mới, trong đó ai đổi mới nhanh sẽ có lợi thế.
Xu hướng ĐMST đến 2025 còn gắn liền với cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Nhiều doanh nghiệp VLXD Việt Nam đã và đang chuyển đổi số trong quản trị sản xuất và chuỗi cung ứng. Các nhà máy xi măng lớn triển khai hệ thống điều khiển tập trung, ứng dụng AI và IoT để giám sát và tối ưu vận hành lò nung, giảm tiêu hao nhiên liệu. Nhà máy gạch men, kính xây dựng áp dụng robot và tự động hóa giúp nâng cao năng suất, giảm lỗi sản phẩm và tiết kiệm nguyên liệu.
Chẳng hạn, công ty Viglacera đã đầu tư dây chuyền gạch ốp lát sử dụng robot gắp sản phẩm, hệ thống in kỹ thuật số, giúp giảm 5–7% hao hụt nguyên liệu so với công nghệ cũ. Việc ứng dụng dữ liệu lớn (Big Data) cho phép doanh nghiệp dự báo nhu cầu thị trường chính xác hơn, tối ưu tồn kho và logistics, từ đó giảm chi phí và lãng phí. ĐMST không chỉ ở sản phẩm mà còn ở quy trình và mô hình kinh doanh – nhiều doanh nghiệp VLXD bắt đầu cung cấp dịch vụ trọn gói (thiết kế-vật liệu-thi công), hoặc phát triển nền tảng trực tuyến kết nối với khách hàng, kiến trúc sư để đưa sản phẩm mới vào dự án nhanh hơn. Tất cả những đổi mới này giúp doanh nghiệp thích ứng linh hoạt với biến động thị trường và nhu cầu khách hàng.
Nhìn về dài hạn, ĐMST sẽ tiếp tục là động lực cốt lõi của ngành VLXD Việt Nam. Trong thập niên tới, có thể kỳ vọng sự xuất hiện của những vật liệu đột phá: xi măng không phát thải, bê tông hấp thụ carbon, vật liệu xây dựng in 3D, hay các loại nano-vật liệu siêu nhẹ, siêu bền. Đồng thời, mô hình sản xuất và tiêu thụ bền vững sẽ trở thành chuẩn mực – các khu công nghiệp vật liệu xây dựng kiểu mới có thể hình thành, nơi chất thải của nhà máy này là đầu vào của nhà máy kia. Việt Nam cũng có tiềm năng trở thành trung tâm sản xuất VLXD xanh của khu vực nếu tận dụng tốt lợi thế về tài nguyên tái chế (tro xỉ, phụ phẩm nông nghiệp…) và chủ động nắm bắt công nghệ mới thông qua hợp tác quốc tế.
Giai đoạn 2023–2025 đánh dấu bước chuyển quan trọng của ngành VLXD Việt Nam hướng tới đổi mới sáng tạo toàn diện. Động lực đến từ yêu cầu tăng trưởng xanh, áp lực thị trường và sự hỗ trợ của chính sách. Việc làm chủ các xu hướng vật liệu mới, cải tiến quy trình sản xuất và tích hợp công nghệ số sẽ quyết định sức cạnh tranh lâu dài của doanh nghiệp VLXD. Với nền tảng đã đạt được (tỷ lệ nội địa hóa cao, năng lực sản xuất lớn) và định hướng đúng đắn, ngành VLXD Việt Nam có đầy đủ cơ hội để bứt phá trong chu kỳ phát triển mới. Đổi mới sáng tạo không chỉ giúp giảm phát thải, tiết kiệm tài nguyên, mà còn tạo ra những vật liệu ưu việt, góp phần dựng xây những công trình chất lượng, xanh và bền vững cho tương lai.
Lễ Công bố và Vinh danh các doanh nghiệp trong Danh sách Top 10 Doanh nghiệp Đổi mới sáng tạo và Kinh doanh hiệu quả năm 2025 – Ngành Vật liệu xây dựng sẽ được tổ chức trong khuôn khổ Diễn đàn Innovation and ESG Summit 2025: Đổi mới sáng tạo – Kiến tạo tương lai bền vững tại Khách sạn Pullman, Hà Nội vào ngày 27 tháng 6 năm 2025 và được đăng tải tại cổng thông tin của Chương trình https://vie10.vn/ và trên các kênh truyền thông đại chúng.